CẢNH QUAN THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI
Huyện đảo Cát Hải có vị trí chiến lược quan trọng của thành phố Hải Phòng và của vùng Đông Bắc tổ quốc. Trải suốt chiều dài lịch sử dân tộc, các thế hệ người dân huyện đảo đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng, bảo vệ và xây dựng đất nước.
Bản đồ địa giới hành chính huyện Cát Hải
Diên tích tự nhiên của huyện là 345km2, bao gồm hai đảo lớn: Cát Hải diện tích xấp xỉ 40km2 và Cát Bà hơn 300 km2. Huyện Cát Hải nằm ở phía Bắc giáp huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) qua dòng sông Phượng; phía Tây giáp đảo Đình Vũ, phía Đông và Nam là vịnh Bắc Bộ. Dân số là29.899 người (tính đến tháng 6/2010), gồm 12 đơn vị hành chính, tỏng đó có 2 thị trấn Cát Bà, Cát Hải và các xã Đồng Bài, Nghĩa Lộ, Văn Phong, Hoàng Châu, Phù Long, Trân Châu, Xuân Đám, Việt Hải, Gia Luận, Hiền Hào.
Quần đảo Cát Bà chủ yếu là địa hình karstơ nhiệt đới bị ngập chìm do biến tiến gần đây. Hoạt động karstơ đã tạo nên cảnh quan độc đáo, nhiều dạng địa hình đặc biệt như hang động, măng đá, chuông đá, các giếng, phiễu karstơ và các thung lũng karstơ. Trên quần đảo Cát Bà có các hang động nổi tiếng như: Hoa Cương, Trung Trang, Quân Y, Áng Mả, Phù Long, Quả Vàng…Đảo chính Cát Bà rộng khoảng 144km2, chỗ cao nhất 331m, là đảo đá vôI lớn nhất trong hệ thống quần đảo phía nam vịnh Hạ Long và vùng ven bờ tây Biển Đông. Toàn đảo Cát Bà là vùng núi non hiểm trở có độ cao từ 50-200m, độ dốc sườn núi trung bình 30-40 độ; nơi thấp nhất là Áng Tôm, thấp hơn mật nước biển 10-30m; đỉnh cao nhất là Cao Vọng nằm ở phía bắc đảo, cao khoảng 331m. Địa hình Cát Bà chủ yếu là núi đá vôi xem kẽ nhiều thung lũng lớn nhỏ. Về tài nguyên khoáng sản, ngoài đá vôi, đảo Cát Bà còn có nguồn nước khoáng (xã Xuân Đám có mỏ nước khoáng nóng 38 độ C) có giá trị. Cát Bà có các hệ sinh thái tiêu biểu như: rừng mưa nhiệt đới trên núi đã vôi. rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm rong cỏ biển, hệ sinh thái hang động, túng áng…Rừng nguyên sinh trên đảo, có đa dạng sinh học cao, đã thông kê được 745 loài thực vật, trong đó có những loài gỗ quý như kim giao, trai lỳ, chò đãi lát hoa và nhiều cây làm thuốc, như thuyết giác, hương nhu, bình vôi, cốt toái, kim ngân, lá khôi…Hệ động vật trên cạn có trên 200 loài, gồm khoảng 20 loài thú, 69 loài chim, 15 loài bò sát và 11 loài lưỡng cư; trong đó có 10 loài thú và 6 loài chim quý hiếm như: voọc đầu trắng ( còn gọi là voọc đầu vàng), mèo rừng, khỉ đuôi vàng, khỉ đuôi lợn, khỉ mặt đỏ, nai, hoẵng, sơn dương, cầy nhông, nhím, trăn gấm, rắn hổ mang chúa, kỳ đã, tắc kè, thạch sùng bay, chim cu gáy, chim đa đa, cu xanh, chim ngói và 2 loài chim nước là vịt trời, sâm cầm…Đặc biệt, loài đặc hữu voọc đầu trắng duy nhất trên thế giới chỉ còn vài chục cá thể ở quần đảo và đã trở thành biểu tượng của khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà. Sinh vật biển thuộc vùng biển – đảo Cát Hải cũng rất phong phú, đa dạng, với trên 1.200 loài, thì có tới 30 loài cỏ biển, 36 loài thực vật ngập mặn, 590 loài động vật đáy, 20 loài san hô, 207 loài cá; trong đó có không ít loài thuộc loại quý hiếm được ghi vào danh sách đỏ Việt Nam và nhiều loài đặc sản có giá trị kinh tế cao như: rong guột, rong đã đá cong, rong mơ mềm, ốc đụn, tu hài, trai ngọc, đồi mồi,rùa da, vích, sò huyết, cá mục, cua bể, cá song, cá thu, cá chim, ghẹ…Vịnh Lan Hạ (Cát Bà) là một trong những vịnh biển đẹp nhất trong quần thể danh thắng vịnh Hạ Long (di sản thiên nhiên thế giới) và cũng chính vì vậy, phần lớn đảo Cát Bà được công nhận là khu dự trữ quyển thế giới.
Trên quần đảo Cát Bà, người nguyên thuỷ xuất hiện khá sớm, cách nay 2,5-1,5 vạn nâm. Nơi ở của họ, những mái đá, những hang động Trung Trang, Giếng Ngoé, Quân Y, Tiền Đức, Đá Hoa, Phù Long, Hang Rí, Áng Mả…là những ngôi nhà tuyệt vời do tạo hoá xây dựng, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa động và an toàn trước sự tấn công của mọi kẻ thù. Cư dân cổ ở các làng biển Cát Bà đã biết mài đá làm công cụ và làm đồ gồm đáy tròn, tức là đi từ kỹ thuật nặn đồ gốm bằng tay đến kỹ thuật nặn đồ gốm bằng bàn xoay, biết đi biển đánh cá bằng thuyền, biết trồng lúa nước, phát triển chăn nuôi, làm vườn trông cây ăn quả, cây ăn củ. Người cổ Cát Bà chính là một bộ tộc thành viên của người Lạc Việt, cư dân của quốc gia Văn Lang, Âu Lạc sau này.
ĐỊA DƯ – HÀNH CHÍNH
Huyện Cát Hải được thành lập năm 1977 trên cơ sở hợp nhất 2 huyện đảo Cát Bà và Cát Hải cũ. Địa bàn huyện Cát Hải ngày nay vốn là một đơn vị hành chính được thành lập vào loại xưa nhất của thành phố Hải Phòng. Theo các sách chí cũ, thời Bắc Thuộc là huyện Ân Phong (có sách chép là Tư Phong, chữ Ân và chữ Tư giống mặt chữ, có thể do khắc hoặc viết nhầm) thuộc Nham Châu. Sau huyện Ân Phong đổi ra là Chi Phong (chữ Chi có nghĩa là chi, phái). Thời thuộc Minh, huyện Chi Phong lệ vào phủ Tân Yên và phủ lỵ, phủ Tân Yên có lúc đặt ở xã Hoà Hy của huyện này. Đến thời Lê Sơ, đổi là Chi Phong (chữ “Chi” có nghĩa là cỏ lệ chi) cho lệ vào phủ Hải Đông, sau lại đổi tên huyện Chi Phong thành Hoa Phong.
Thời Tây Sơn, huyện Hoa Phong thuộc phủ Hải Đông trấn Yên Quảng (còn gọi là An Quảng). Trước năm 1813, huyện Hoa Phong gồm 2 tổng với 15 xã, phường là tổng An Khoái (sau đổi Đôn Lương) trên đảo Cát Hải và tổng Hà Liên (sau đổi Hà Sen) trên đảo Cát Bà. Tổng An Khoái tương ứng với phần đất của toàn bộ xã Đồng Bài, một phần xã Gia Lộc, toàn bộ thị trấn Cát Bà, xã Hoàng Châu, xã Nghĩa Lộ, xã Văn Phong trên đảo Cát Hải ngày nay, gồm 10 xã, phường cũ là: An Khoái, An Phong, Đồng Bài, Hoà Hy, Hoàng Châu, Lục Độ, Lương Lãnh, Thiên Lộc, Văn Minh và phường Cao Mại. Sau đổi An Phong thành phong Niên, Cao Mại thành Cao Minh, Lương Lãnh thành Lương Năng, Thiên Lộc thành Gia Lộc. Tổng Hà Liên bao gồm phần đất tương ứng với các xã Trân Châu, Gia Luận, Phù Long, Xuân Đám, Hiền Hào và thị trấn Cát Bà trên đảo Cát Bà ngày nay, gồm 5 xã cũ là: Chân Châu (sau đổi thành Trân Châu). Đường Hào (sau đổi thành Hiền Hào), Xuân Áng (sau đổi thành Xuân Đám), Phù Long, Gia Luận. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), cắt tổng Vân Hải của châu Vân Đồn cho lệ vào huyện Hoa Phong (tên cũ của huyện Cát Hải ngày nay), sau tổng Vân Hải lại bị cắt trả về châu Vân Đồn như cũ. Năm Thiệu Trị thứ I (1840), huyện Nghiêu Phong được thành lập, về cơ bản vẫn là huyện Hoa Phong cũ. Đời Tự Đức, huyện Nghiêu Phong lệ vào phủ Sơn Định, tỉnh Quảng Yên. Thời Pháp thuộc, đổi huyện Nghiêu Phong thành huyện Cát Hải, vẫn thuộc tỉnh Quảng Yên như cũ. Lúc này, huyện Cát Hải gồm 2 tổng Đôn Lương và Hà Sen, tổng Đông Lương có 10 xã va ftổng Hà Sen có 5 xã và phố Các Bà.
Địa danh Cát Bà còn có nhiều ý kiến khác nhau. Bản đồ năm 1938 còn ghi Các Bà, sau có lẽ bị đọc chệch thành Cát Bà. Tương truyền, quần đảo bày vốn là nơi các bà, các mẹ và chị em phụ nữ lo chuẩn bị lương thảo giúp các chiến binh đánh đuổi giặc Ân. Bởi thế, nên hòn đảo nơi các chiến binh đóng đại bản doanh tiền phương được gọi là Các Ông và đoả hậu phương của các bà, các mẹ, các chị được mang danh là Các Bà. Các bậc cai niên cũng kể lại rằng tên Các Bà bắt nguồn từ một sự tích hiện còn lưu truyền. Ngày xửa ngày xưa, không rõ là thời kì nào, có xã hai nữ thần chết trẻ không biết từ đâu trôi dạt vào bờ đảo và lập tức bị mối xông thành mộ. Ngay đêm ấy, các thần nữ hiển linh báo mộng cho các vị chức sắc và dân chúng trên đảo biết về sự lih ứng của mình. Dân chúng bèn đóng góp tiền của lập miếu thờ hai thần nữ ngay bên hai nấm mộ thiêng này, gọi là miếu Các Bà. Các nữ thần đã nhiều lần hiển linh âm phù ngư dân trên đảo thoát khỏi các dịch bệnh, tai nạn trên biển và đánh đuổi cướp biển, giặc ngoại xâm. Để tri ân và muốn biểu dương uy linh của các nữ thần, nhân dân bèn lấy tên Các Bà đặt tên cho quần đảo. Hiện trên đảo còn nghè thờ Các Bà ở thị trân sCát Bà và một số làng trên đoả. Sau năm 1945, huyện Cát Hải và thị xã Cát Bà thuộc tỉnh Quảng Yên, đến ngày 5-6-1956, cả hai đơn vị hành chính này được sát nhập vào thành phố Hải phòng. Ngày 22-7-1957, thành lập huyện Cát Bà, bao gồm thị xã Cát Bà cũ và 5 xã Trân Châu, Việt Hải, Xuân Đám, Hiền Hào và Gia Luận, thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn Cát Bà thuộc huyện Cát Bà. NGày 11-3-1977, huyện Cát Bà sát nhập với huyện Cát Hải thành một đơn vị hành chính mới lấy tên là huyện Cát Hải. Ngày 13-3-1979, giải thể xã Cao Minh, huyện Cát Hải còn 11 xã. Ngày 23-4-1988, thành lập thị trấn Cát Bà, giải thể xã Hoà Quang và xã Gia Lộc để thành lập thị trấn Cát Hải.
Huyện đảo Cát Hải hiện có 10 xã và 2 thị trấn. Ngoài cư dân bản địa, dân Cát Hải là người cộng đồng muôn phương, thạo nghề sông nước như Thái Binh, Nam Đinh, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Quảng Ninh… Bên cạnh cư dân gốc Việt là cơ bản, trước đây còn có khá đông người Hoa sinh sống. Họ từ mọi miền và các tỉnh ven biển của Trung Quốc đến định cư tại Cát Bà. Sau “sự kiện người Hoa” năm 1978, hau fhết người Hoa rời đảo ra đi. Để phân bố lại lực lượng trên địa bàn, đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất và bảo vệ đảo, một bộ phận cư dân Đồ Sơn, Tiên Lãng, An Lão được bổ sung cho huyện đảo Cát Hải, nhân dân xã Cao Minh bên Cát Hải được bố trí chuyển cư hẳn sang Cát Bà, do đặc điểm địa hình, nên việc phân bố dân cư của huyện không đồng đều, có nơi dân sống tập trung như thị trấn Cát Bà, thị trấn Cát Hải, xã Nghĩa Lộ; có nơi dân cư sống thưa thớt, biệt lập như Gia Luận, Việt Hải.